Thưa cả Làng Thơ,
Thỉnh thoảng có chút hứng thú trong lúc nhàn rỗi, tôi vào các trang web bằng Hoa ngữ để xem các bài thơ Đường thì thấy có bài thơ “ Trường Can Hành” của Lý Thái Bạch được ghi chú có sự sai biệt một số chữ trong câu thơ, như trên trang web của ông Bùi Minh Long 裴 明 龍 (ông Bùi Minh Long là một học giả và cũng là môt trước tác gia nổi tiếng ở Hoa Lục).
Theo ông ghi lại thì có sự sai biệt một vài chữ trong câu thơ Trường Can Hành, nhưng ông cũng không khẳng định chữ nào là đúng, chữ nào là sai, Nay tôi phóng lên đây để quý vị tùy nghi nghiên cứu và bài thơ chuyển dịch theo thể Lúc Bát của tôi.
Những chữ sai biệt xin ghi bên hong của mỗi câu thơ và có tô màu sắc khác để quý vị dễ nhận dạng các chữ sai biệt đó.
Từ trên đếm xuống theo thứ tự từng câu, câu thứ 8 chữ THƯỜNG hay là chữ THƯỢNG, câu 14 là chữ KHỞI hoặc SỈ, câu 16 là chữ DỰ có thêm bộ THỦY, câu 18 chữ MINH hay là THANH, câu 19 chữ TRÌ hay là CỰU, câu 20 chữ LỤC hay là chữ THƯƠNG, câu 23 chữ LAI hay là HUỲNH.
Thưa các bạn, ngay như các bài thơ Đường đã được in ấn từ trong nước Trung Quốc (Đài Loan hoặc Hoa Lục) vẫn còn bị sai lạc, huống hồ các bài thơ Đường được chuyển dịch sang Việt ngữ và được in ấn theo lốí cổ điển trước những năm 75, như là dùng thợ sắp chữ bằng tay và dùng bảng kẻm bằng chì thì chắc chắn sẽ khó tránh khỏi những nhầm lẫn hoặc sai lạc dẫn đến chỗ tam sao thất bổn là do đó.
Nay tôi xin gởi đến quý vị nào yêu thích thơ Đường với bài Trường Can Hành (hồi 1) này để quý vị tuỳ nghi suy nghiệm.
Trân trọng
妾發初覆額,
折花門前劇。
郎騎竹馬來,
繞床弄青梅。
同居長干里,
兩小無嫌猜。
十四為君婦,
羞顏未嘗開。 (嘗一作 尚)
低頭向暗壁,
千喚不一回。
十五始展眉,
願同塵與灰。
常存抱柱信,
豈上望夫臺。 (豈一作 恥)
十六君遠行,
瞿塘灩澦堆。 【預加水旁】
猿鳴天上哀。 (鳴一作 聲)
門前遲行跡, (遲一作 舊)
一一生綠苔。 (綠一作 蒼)
苔深不能掃,
落葉秋風早。
八月胡蝶來, (來一作黃)
感此傷妾心,
坐愁紅顏老。
早晚下三巴,
預將書報家。
相迎不道遠,
直至長風沙。
Trường Can Hành, ( kỳ I)
Thiếp phát sơ phúc ngạch.
Chiết hoa môn tiền kịch,
Lang kỵ trúc mã lai.
Nhiễu sàng lộng thanh mai,
Đồng cư Trường Can lý.
Lưỡng tiểu vô hiềm sai,
Thập tứ vi quân phụ.
Tu nhan vị thường khai, (nhan hay là thượng)
Đê đầu hướng ám bích.
Thiên hoán bất nhất hồi,
Thập ngũ thủy triển mi.
Nguyện đồng trần dữ hôi,
Thường tồn bão trụ tín.
Khởi thượng vọng phu đài, (khởi hoặc là sỉ)
Thập lục quân viễn hành.
Cù Đường Liễm Dự đôi, (có bộ thủy)
Ngũ nguyệt bất khả xúc.
Viên minh thiên thượng ai, (minh hoặc là thanh)
Môn tiền trì hành tích. (trì hoặc là cựu)
Nhất nhất sinh lục đài, (lục hoặc là thương)
Đài thâm bất khả tảo.
Lạc diệp thu phong tảo.
Bát nguyệt hồ điệp lai, (lai hoặc là huỳnh)
Song phi tây viên thảo.
Cảm thử thương thiếp tâm,
Tọa sầu hồng nhan lão.
Tảo vãn hạ Tam Ba,
Dự tương thư báo gia.
Tương nghinh bất đạo viễn,
Trực chí Trường Phong Sa.
Lý Bạch
Dịch nôm theo thể thơ Lục Bát
HÀNH KHÚC TRƯỜNG CAN (1)
Tóc trên trán Thiếp vừa dài,
Hái hoa trước cửa, ngày ngày đùa chơi.
Ngựa tre Chàng cỡi đến nơi,
Quanh sàng nghịch ném tơi bời quả mơ.
Truờng Can cùng ngụ bấy giờ,
Hồn nhiên hai đứa ngây thơ biết gì.
Lúc Thiếp mười bốn vu qui,
Thẹn thùng má đỏ thường khi rượi buồn.
Quay đầu vào vách, đêm buông,
Nghìn câu Chàng gọi thiếp luôn im lời.
Mười lăm nhan sắc tuyệt vời,
Đường trần thề nguyện trọn đời thủy chung.
Thương Chàng nghĩ ngợi mông lung,
Cần chi lên gác tựa lưng đợi chồng.
Năm mười sáu, Chàng ruổi rong,
Cù Đường, Liễm Dự qua dòng sông sâu.
Tháng Năm ngăn cách mây sầu,
Trời buồn, vượn hú một màu thê lương.
Chân Chàng in dấu trước vườn,
Rêu xanh còn mọc quanh tường, mái tranh.
Làm sao quét sạch rêu xanh,
Thu về lá rụng trơ cành, ban mai.
Tháng Tám bươm bướm vãng lai,
Đủ đôi đủ cặp lượn bay Tây vườn.
Khiến lòng sầu nhớ vấn vương,
Má hồng phai nhạt canh trường xót thương.
Tam Ba, sớm tối băng đường,
Được tin nhạn báo Chàng đương trở về.
Đón nhau nào quãng sơn khê,
Trường Phong Sa đó, phu thê tương phùng.
Đông Thiên Triết